Thay đổi hình thái thương mại
Việt Nam được hưởng lợi từ khu vực FDI mạnh, đang sử dụng khoảng 2,4 triệu lao động. Tuy nhiên, các nước trong khu vực ASEAN như Campuchia và Myanmar đang nổi lên là đối thủ cạnh tranh ở các ngành sản xuất thâm dụng lao động.
Trong một số trường hợp, công nghệ thay đổi nhanh chóng có thể dẫn đến công ăn việc làm quay về nước sở tại của dòng FDI. Bằng cách nào Việt Nam khai thác các hình thái thương mại mới để tạo lợi thế? Có thể thấy nhóm người tiêu dùng có nhu cầu về hàng hóa chế biến, chế tạo đang gia tăng nhanh ở châu Á, từ 20% năm 2002, dự báo đạt 80% vào năm 2030.
Tại Hà Nội, các trung tâm mua sắm như Aeon Mall, Royal City và Lotte có rất nhiều gia đình đến tham quan, mua sắm vào dịp cuối tuần. Nhóm gia đình trung lưu có thời gian và tiền bạc cho các hoạt động giải trí sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.
Lực lượng lao động thế kỷ XXI đòi hỏi phải có các kỹ năng phức tạp hơn trước đây, tự động hóa đang góp phần thúc đẩy điều này do máy móc đảm nhận các phần việc thủ công và lặp lại.
Ví dụ trong ngành vận chuyển, nhu cầu về lao động chân tay, công việc như bốc vác tại các bến cảng sẽ giảm đi nhưng lại đòi hỏi ở người lao động nhiều kỹ năng và kiến thức chuyên sâu, ví dụ họ phải hiểu biết về máy tính hay ngành logistics để đảm bảo các lô hàng được vận chuyển chính xác và đúng giờ.
Thách thức của Việt Nam là chỉ 8% lực lượng lao động có trình độ đại học, chưa đủ tạo bước nhảy vọt cho nền kinh tế tri thức. Để tạo cơ hội việc làm chất lượng hơn, người lao động cần được trang bị bộ kỹ năng hợp lý.
Xu hướng này tạo ra rủi ro lớn cho Việt Nam. Tốc độ tăng nhiệt độ ở Việt Nam kể từ những năm 1960 là cứ mỗi thập kỷ lại tăng gấp đôi so với mức trung bình toàn cầu. Mực nước biển dâng cao có thể làm 1/3 dân số Việt Nam đối mặt với nguy cơ ngập lụt, hơn 80% ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng.
Độ mặn thay đổi cũng đe dọa 2/3 lượng cá nuôi và đánh bắt ở Việt Nam. Đất sụt lún kết hợp với tăng độ mặn ở đồng bằng sông Cửu Long gây nguy cơ cho sinh kế của 13,6 triệu nông dân trồng lúa. Sự chuyển đổi cách thức sản xuất và kinh doanh là cấp thiết.
Ví dụ, các nhà sản xuất hàng hóa sơ cấp có thể quan tâm đến hạn hán hoặc lũ lụt, cây trồng hoặc vật nuôi kháng bệnh. Các công ty khai thác du lịch có thể đa dạng hóa sản phẩm tới các vùng ít bị đe dọa bởi mực nước biển dâng cao hoặc nhiệt độ tăng cao. Làm sao cam kết tối đa hóa giá trị từ mỗi tài nguyên trong chu kỳ sản xuất.
Việt Nam sắp trải qua giai đoạn già hóa dân số nhanh nhất trong lịch sử. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đã lên tới đỉnh và đang giảm vào năm nay. Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên là 6,5% vào năm 2017, dự kiến đạt 21% vào năm 2050.
Cứ 5 người sẽ có 1 là người cao tuổi. Điều này tác động tiêu cực đến nguồn cung lao động, tăng trưởng năng suất dài hạn, lương hưu và hệ thống an sinh xã hội. Ngành công nghiệp chăm sóc sẽ phải mở rộng để phục vụ người cao tuổi như đang diễn ra ở các nước phát triển.
Ngoài 4 vấn đề trên, sự phát triển bền vững và cạnh tranh của Việt Nam cũng đồng thời hội tụ 4 loại vốn liên quan: thể chế, con người, vật chất do con người tạo ra và tự nhiên.
Vốn thể chế
Tạo ra môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân tăng trưởng. Vốn thể chế liên quan đến việc xây dựng khả năng chịu đựng cho kinh tế vĩ mô, khuyến khích cải cách cơ cấu cho tăng trưởng dựa trên năng suất.
Điều này đòi hỏi có sự hỗ trợ các động lực mới của tăng trưởng, dịch chuyển để vai trò của nhà nước nhẹ hơn, đồng thời đưa ra các chiến lược phát triển FDI và thị trường vốn hướng tới tương lai và được xây dựng dựa trên thông tin đầy đủ. Vốn thể chế là trái tim của sự phát triển bền vững và cạnh tranh của quốc gia
Vốn nhân lực. Là tổng hòa sức khỏe, kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm của người dân. Nó thúc đẩy khả năng cạnh tranh của một quốc gia, đặc biệt tại thời điểm có sự thay đổi đòi hỏi số người tài giỏi gia tăng để duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên, vốn nhân lực không tự cụ thể hóa mà phải được xã hội và nhà nước nuôi dưỡng.
Một xã hội già hóa đòi hỏi phát triển vốn nhân lực ở từng người để đạt tiềm năng cao nhất. Nguồn vốn này được ví như bộ não của sự phát triển bền vững và cạnh tranh của một quốc gia.
Vốn vật chất
Là xương sống của nền kinh tế, gồm hạ tầng giao thông, cầu cảng, nhà xưởng, hệ thống thủy lợi và đất đô thị. Cần phát triển và triển khai có hiệu quả các loại vốn vật chất do con người tạo ra, tối đa hóa vai trò của khu vực tư nhân và đảm bảo dịch vụ phù hợp nhu cầu.
Cần xem xét tác động từ thay đổi công nghệ, như giá năng lượng mặt trời sẽ thấp hơn, hệ thống vận tải công cộng khối lượng lớn không có xung đột, lưới điện thông minh và các cơ hội mới cho các nền kinh tế tuần hoàn và chia sẻ.
Vốn tự nhiên
Đất nông nghiệp, rừng, các khu bảo tồn cũng như năng lượng và khoáng sản được sử dụng hiệu quả và bền vững, điều chỉnh giá cả và các ưu đãi để tạo khả năng phục hồi khí hậu. Một quốc gia vững vàng trước các xu hướng lớn thì 4 loại vốn trên được phát triển và sử dụng đầy đủ, công bằng và hiệu quả. Chúng ta giảm chi phí phát triển tất cả các loại vốn và đảm bảo mọi người đều có quyền tiếp cận với chất lượng cao nhất có thể.
(*) Tác giả là Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam